Du Học Nhật Bản Chữ Kanji Tin liên quan

Tin liên quan

Người Nhật làm việc như thế nào?

LÀM VIỆC CÓ PHƯƠNG PHÁP, CẦN CÙ, CẨN THẬN, KHÔNG GANH TỴ
Người Nhật chấp nhận khó khăn, phức tạp và rất kiên nhẫn học hỏi hay chịu đựng, cộng thêm với lối làm việc có phương pháp là bí quyết thành công của họ. Phức tạp như ngôn ngữ của họ, dùng tới 5 loại văn tự khác nhau là chữ Hán, Quốc Tự, Hiragana, Katakana và La Tinh, có chữ Hán lên tới 20 đến 25 cách đọc. Làm việc phương pháp ở chỗ hội họp kỹ, nghiên cứu kỹ, phân công kỹ và làm việc kỹ. Đôi khi người ngoại quốc phải sốt ruột là sao họ chuẩn bị lâu thế, và rồi ai cũng phải ngạc nhiên khi bắt tay vào việc, họ làm nhanh thế và kỹ thế...
Các học sinh Nhật đều phải tập về lễ nhập học, nhất là lễ phát bằng tốt nghiệp từ trước. Ngay cả đối với người tỵ nạn Đông Dương ở các trung tâm xúc tiến định cư, khi học Nhật ngữ, Ban Điều Hành bao giờ cũng nói người đại diện viết diễn văn trước để dịch ra tiếng Nhật và tất cả họp tập mọi nghi thức trước một ngàỵ Khi chụp hình, nhiếp ảnh gia luôn sửa tư thế và chỉ cách để tay cho học sinh, nên chỗ nào cũng thấy hình chụp ngay ngắn, đồng nhất.
Có lần ở nhà thương phụ thuộc Đại Học Nichidai (Nhật Bản Đại Học), vợ tôi thấy một bà già người Nhật làm công việc vệ sinh, khi đổ rác mà thấy bao rác đã dơ thì bà ta thay bao rác mới. Lần đó, sau khi thay bao rác xong, bà đã đi mấy bước mà vẫn còn quay lại ngó, thấy mép bao chưa được đẹp, bà ấy quay trở lại vuốt cho thật thẳng.
Quý bạn đi mua hàng ở Nhật, nhất là vào các cửa hiệu lớn sẽ thấy đúng "Khách là nhất!". Họ tiếp đãi rất ân cần, lịch sự, khách mua thì cảm ơn thật nhiều, dù sau khi giở ra xem đủ thứ mà không mua thì cũng vui lòng cám ơn rồi sắp xếp lại chứ không có màn cự nự. Khi khách đưa trả tiền, nhân viên thường nhận bằng hai tay, rồi kẹp ở máy tính tiền để phòng trường hợp nhầm lẫn giữa tiền giấy 5.000 hay 10.000 Yen..., khi nhận cũng như khi thối lại thường đếm hai lần, đưa tiền thối cũng bằng hai tay, thối xong mới cất tiền giấy của khách đi rồi chắp hai tay cúi chào. Trong giao dịch, lúc trao đổi danh thiếp, đôi khi cũng thấy họ đưa và nhận bằng hai tay, nhất là người có địa vị thấp hơn.
Thời sinh viên, thỉnh thoảng tôi ra "chợ người" ở gần ga Takadanobaba, quận Shinjuku để kiếm việc làm. Có lần làm chung với một thanh niên Nhật, anh ta không đi làm chính thức mà vẫn là thợ phụ như chúng tôi, lang thang ở khắp các công trường xây dựng, có gì làm nấy, sai gì làm nấy, thường là việc dọn dẹp. Một hôm đám sinh viên chúng tôi cùng anh ta được trao việc dọn đống ống chống bằng thép dùng đổ bê tông, mỗi ống nặng khoảng từ 8 đến 10 kg. Chúng tôi thấy đi xa, nên cứ từ từ đem từng ống một cho khỏi mệt, trong khi anh ta thì cứ ba ống một. Khi nhận việc xúc cát từ nguyên một xe cát chở tới, chúng tôi làm độ 30 phút là mệt lử mà mới xúc được độ 1/4 xe, anh ta nhào vào nói để anh ta làm, anh làm liền tay cũng độ 30 phút là hết chỗ còn lại. Khi ra về, mọi người xếp hàng lãnh bao thư, trong có 5.000 hay 6.000 Yen như nhau. Lần nào gặp anh tôi cũng thấy anh làm việc cật lực như thế, tay đầy vết xước mà không bao giờ thấy than mệt hay cằn nhằn chúng tôi sao tà tà thế.
Người Nhật làm việc đến xong chứ không lo canh giờ về và phải xong một cách hoàn mỹ chứ không thấy hết giờ thì làm vội qua loa, và họ rất ngạc nhiên khi thấy khi người Việt làm việc hay than "mệt rồi", không làm nữa. Hầu như không thấy người Nhật vừa làm việc vừa nói chuyện, vừa hút thuốc lá hay uống cà phê. Nói chung họ chủ trương làm chậm mà chắc, muốn sản phẩm luôn được hoàn mỹ, vượt hơn những thứ đã có.
Khi vào làm việc chung, người Nhật không hỏi lương nhau để xem việc mình làm và lương có tương xứng không, không có kiểu thấy nhiều thì yên lặng, thấy ít thì bất mãn hay làm tà tà và rất ít khi họ mượn tiền nhau.
Công chức thì ở đâu cũng "lè phè" hơn tư chức. Nhưng nhân viên hành chánh Nhật nói chung tiếp mọi người rất tử tế, không khác nhân viên một cơ sở thương mại là mấy, nói năng rất khiêm tốn, hầu như không bao giờ thấy họ hách dịch. Chỉ họa hoằn lắm mới thấy có cãi nhau ở Sở Ngoại Kiều (Sở Nhập Quốc, 入国管理局 = Nyukoku Kanrikyoku, Nhập Quốc Quản Lý Cục), thường người lớn tiếng là người ngoại quốc chứ không phải người Nhật. Nhân viên bưu điện làm việc còn tận tụy và chăm chỉ hơn nữa, trong nội bộ cũng luôn có đặt chỉ tiêu gia tăng hiệu suất.


(sưu tầm)
Công Ty Hiền Quang chuyên Du Học Nhật Bản

Tính cách, cư xử của Người Nhật

LẠNH NHẠT - THÂN THIỆN?
Có nhiều người đã nhận xét là người Nhật "lạnh nhạt", có lẽ điều đó cũng đúng, nhưng chỉ đúng một nửa với hầu hết những người Nhật mới quen. Còn khi quen lâu thì họ sẽ vượt qua được ranh giới e dè, cởi bỏ được "mặt nạ" và tỏ ra thân thiện hơn.
Giữa thập niên 80, khi tôi lần đầu tiên tự đi thuê phòng ở một dãy nhà nhiều phòng cho thuê gọi là "a-pa-tồ" (apartment), theo tục lệ người Nhật là nên có chút quà mọn như một hộp bánh nhỏ hay khăn vải (người Nhật vốn tính sạch sẽ hay lau chùi nên họ hay tặng nhau món này)... để ra mắt những phòng bên cạnh. Tôi chuẩn bị quà và gõ cửa, tự giới thiệu là người Việt mới dọn tới, nhưng người trong phòng không mở, chỉ nói vọng ra "Thôi được rồi", hay "Không cần" làm tôi cũng hơi áy náy. Ở Nhật cũng có nhiều người hay đi từng nhà, gõ cửa quảng cáo giới thiệu hàng hay chiêu dụ về tôn giáo, nên nhiều nhà phải gắn cả bảng cự tuyệt để khỏi bị làm phiền. Người Nhật dù là đang ở nhà, cũng có thói quen đóng cửa, cài then bên trong để tránh bất trắc. Có lẽ lúc đầu họ cũng coi tôi như một kẻ làm phiền và thấy cũng chẳng có gì cần để tiếp xúc.
Vì nhà Nhật vách mỏng lắm, tôi lo sau này có con nhỏ làm ồn hay mình làm gì không đúng phong tục Nhật sợ bị họ qua kiếm chuyện. Nên nhân một lần đi làm về, tôi thấy hai ông ở mấy phòng bên cạnh đứng nói chuyện với nhau, tôi vội chào rồi vào nhà lấy quà ra và đưa tặng. Khi đó, mặt giáp mặt hai ông có muốn cũng không thể lánh mặt
Không biết họ nghĩ thế nào về hành động của tôi, nhưng thấy họ đổi thái độ, trở nên thật vui vẻ, cởi mở, và còn nói thêm rằng có gì cần cứ nói, họ sẵn sàng giúp. Như một số người đã nói, tôi nghiệm ra rằng, mình cũng cần kiên nhẫn, đợi dịp tốt để làm quen thì họ sẽ cởi mở hơn.  
Tuy nhiên, người ngoại quốc sẽ rất ngạc nhiên khi thấy lần trước nhờ thì họ rất nhiệt tình giúp đỡ mà lần sau họ lạnh nhạt. Vấn đề là người Nhật sẵn lòng giúp đỡ, nhưng họ cũng quen tính tự lập, nên nếu nhờ lần thứ hai một việc tương tự thì họ cảm thấy không vui, không muốn giúp nữa mà muốn người nhờ vả hãy cố gắng tự lập.

CỨNG RẮN - HAY KHÓC?
Khi làm việc với người Nhật, ai cũng thấy là người Nhật rất trọng nguyên tắc, đến độ như khó tính và cứng rắn, nhưng mặt khác họ cũng dễ rung cảm với thiên nhiên và nhân tình nên hay khóc lắm, nhất là phụ nữ. Họ trọng kỷ luật, khi tham gia một tổ chức nào là họ tuân thủ mọi điều lệ một cách chặt chẽ. Nơi công cộng, họ luôn kiên nhẫn xếp hàng chứ không chen lên. Hình ảnh thường thấy nhất là các tiệm ăn đông khách, người Nhật sẵn sàng xếp hàng cả tiếng đồng hồ. Trong cuộc sống xã hội công nghiệp, họ thường cố gắng giữ đúng giờ, nhất là trong giao ước làm ăn.
Ai ở Nhật hơi lâu chắc cũng đã từng chứng kiến và thấy người Nhật rất dễ khóc. Như khi họ đến trọ nhà người ngoại quốc hay ngược lại có người ngoại quốc đến chơi vài ngày, khi chia tay thường thấy họ khóc. Khi người Việt tỵ nạn đến các trại tạm cư rải rác khắp nước Nhật, người địa phương thường niềm nở đến giúp đỡ, tặng quà, quần áo... và khi người tỵ nạn ra đi, dù có báo tin hay không, họ cũng tự động đến đưa tiễn và có một số người khóc. Một trường hợp khác nữa, chẳng may có người tỵ nạn bị bệnh qua đời, nếu là thân nhân của mình thì chắc là người Việt sẽ khóc, nhưng nếu chỉ là bạn bè thì cố gắng giúp đỡ an táng chứ hầu như không khóc, trong khi đó, nhiều nhân viên người Nhật chỉ mới quen biết vài tháng mà vẫn khóc, có khi cẩn thận mặc cả tang phục đến dự.  

(sưu tầm)
Công Ty Hiền Quang chuyên Du Học Nhật Bản

Khác biệt văn hóa Việt Nam&Nhật Bản

Dưới đây là một vài nét văn hóa Nhật Bản được tác giả bài viết khéo léo so sánh trong cùng ngữ cảnh ở Việt Nam.

1. こんにちは (konnichiwa):
Với tiếng Việt, bạn có thể dùng “xin chào”, “em chào thầy”, “cháu chào bác”, “con chào ba” cho mọi lúc, mọi nơi. Nhưng với tiếng Nhật, tùy theo thời điểm mà từ chào hỏi khác nhau. (Điều này giống với tiếng Anh).
Ở Việt Nam, khi tôi gặp đồng nghiệp người Nhật, hoặc sinh viên có giờ học với giáo viên người Nhật, đều dùng こんにちは [konnichiwa] cũng là chuyện đương nhiên. Chỉ có điều với người thân trong gia đình thường họ lại không dùng câu chào này.
Dù được gọi là họ hàng thân thích, nhưng nếu là con riêng của chồng (hoặc vợ), cha mẹ chồng (hoặc vợ) thì こんにちは [konnichiwa] vẫn được dùng để chào hỏi nhau.
Ngoài ra, nếu là ruột thịt nhưng sống cách xa, cha mẹ, anh em lúc thăm nhau vẫn chào こんにちは [konnichiwa].
Cũng có trường hợp ngoại lệ: cha mẹ ly dị, con cái sống xa tình cảm của cha, lâu ngày gặp lại cha con chào nhau こんにちは [konnichiwa] như chào với người ngoài.
Vậy thường khi ra đường, anh em tình cờ gặp nhau thì chào hỏi nhau như thế nào? Đương nhiên tùy người mà cách chào khác nhau, nhưng cách biểu hiện thông thường là: あら [ara] (Ủa!) hay どうしたの [doushitano] (Sao vậy?).
Với bạn bè hay cha con, おはよう [ohayou] (chào buổi sáng) hay おやすみ [oyasumi] (chúc ngủ ngon) vẫn được dùng chào nhau. Riêng こんばんは [kombanwa] (chào buổi tối) cũng giống như こんにちは [konnichiwa] trong tiếng Nhật giao tiếp được giới hạn ngầm cho mối quan hệ cha con.

2. ありがとう [arigatou] (Cám ơn):
Một du học sinh nước ngoài đến nhà người Nhật chơi, khi được mời dùng trà đã nói: ありがとう [arigatou]. Có điều gì đó đã làm cho bà chủ nhà cảm thấy du học sinh này hơi thất lễ.
ありがとう [arigatou] quả là lời nói biểu lộ lòng cảm tạ. Khi cho trẻ con quà bánh và được chúng đáp lại bằng lời cảm ơn ありがとう [arigatou] là chuyện thường tình. Nhưng trường hợp sinh viên này dùng ありがとう [arigatou] đã làm cho bà chủ nhà không hài lòng. Tại sao vậy?
Theo tài liệu 日本人のコミュニケーション [Nihonjin no komyunikeeshon] (Cách giao tiếp của người Nhật) thì lời cảm ơn ありがとう [arigatou] chỉ được phép sử dụng trong phạm vi sau đây:
a. Người lớn tuổi nói với người nhỏ hơn.
b. Thầy giáo nói với học trò.
c. Nếu là quan hệ nơi làm việc thì cấp trên với cấp dưới.
d. Bạn bè với nhau.
e. Trẻ con với người lớn.
Như vậy, trường hợp của du học sinh kể trên phải dùng kính ngữ ありがとうございます [arigatou gozaimasu] (Dạ xin cảm ơn) mới được cho là lễ phép.
Vì biết được phạm vi cho phép sử dụng ありがとう [arigatou] nên khi nói ra, người ta có thể đoán được người nghe có quan hệ như thế nào với người nói. Và điều này rất cần thiết trong xã hội sử dụng tiếng Nhật, một xã hội có cấu thành trên dưới theo chiều dọc.
Đương nhiên, nếu thêm phần kính ngữ ございます [gozaimasu] hay ございました [gozaimashita] sau ありがとう [arigatou] cũng không làm hỏng luật lệ này.

3. いらっしゃいませ [irasshaimase]:
Khi bước vào một nhà hàng Nhật, một sinh viên Trung Quốc đã ngạc nhiên và lúng túng khi nghe lời mời chào lớn tiếng いらっしゃいませ [irasshaimase] mà không biết phải trả lời sao cho phải. Điều này đối với người Nhật chẳng là vấn đề gì cả, vì đối với họ, đó là chuyện đương nhiên.
Rồi khi bước ra khỏi nhà hàng lại có tiếng cám ơn rõ lớn từ sau lưng ありがとうございました [arigatou gozaimashita]. Nghe vậy, người sinh viên đó quay lại và đáp どういたしまして [douitashimashite]. Chính nghĩa của lời nói “Không có chi” này đã làm cho nhân viên nhà hàng vừa nói lời cảm ơn đó đứng ngây ra...
Trên thực tế, khách Nhật khi nghe lời cảm ơn đó không đáp lại bằng どういたしまして [douitashimashite].

4. どういたしまして [douitashimashite]:
Ở siêu thị Việt Nam, sau khi trả tiền, có nhiều khách hàng nói lời cảm ơn với nhân viên thu ngân. Nhưng nếu ở Nhật thì điều đó sẽ bị cho là rất mất tự nhiên. Bởi lẽ, trong xã hội Nhật Bản, quan niệm “khách hàng là thượng đế” đến nay vẫn còn được giữ vững.
Ở các cửa hàng Nhật, bạn sẽ thường nghe lời tiễn khách sau:
店員 [ten in] (nhân viên):
ありがとうございました [arigatou gozaimashita].
客 [kyaku] (khách hàng):
無言 [mugon] (không nói gì),
無視 [mushi] (làm lơ),
hoặc nói どうも [doumo] thay cho lời cảm ơn đầy đủ,
hoặc khách chỉ mỉm cười là đủ!

5. Đại từ nhân xưng ngôi thứ II あなた [anata]:
Một du học sinh được thầy giáo chủ nhiệm giới thiệu với thầy hiệu trưởng. Đang khi nói chuyện vui vẻ, người sinh viên đó đã hỏi thầy: あなたはどんな音楽が好きですか。[anata wa donna ongaku ga sukidesuka?] (“Bạn” thích loại nhạc nào?) thì trong phút chốc không khí bỗng nặng đi, có cái gì đó trong câu hỏi đã làm thầy cảm thấy khó chịu...
Trong xã hội Nhật, từ nhân xưng ngôi thứ II được cho là rất khó sử dụng, thậm chí người Nhật với nhau hầu như cũng không có cơ hội để dùng あなた [anata]. Hẳn nhiên, tránh dùng あなた [anata] là an toàn nhất.
Vậy thì lúc nào, ai nói với ai mới dùng ngôi thứ hai này? Cách biểu hiện này bộc lộ rõ nét cơ cấu ngôn ngữ phân biệt trên dưới trong xã hội Nhật. Cũng như ありがとう [arigatou], あなた [anata] không được dùng cho người lớn tuổi hơn mình, cấp trên hay bậc đàn anh.
Tuy nhiên, trong cơn phẫn nộ, bực tức, đôi khi người Nhật cũng lớn tiếng nói với vợ hay với bạn あなた! [anata] hoặc きみ! [kimi] (cậu, mày).
Một người bạn Nhật của tôi, biết rõ thời gian tôi đến Nhật mà sau hơn 2 tháng mới liên lạc được với tôi. Trong e-mail đầu tiên gửi cho tôi, có một đoạn chị đã viết 私もずっとあなたのことが気になっていました [Watashi mo zutto anata no koto ga ki ni natteimashita.] (Tôi cũng đã luôn lo lắng về chị). Khi hỏi cách dùng あなた [anata] trong trường hợp này, tôi đã được giáo viên người Nhật giải thích là: dù là bạn thân nhưng người nói mang cương vị lớn hơn nên tỏ thái độ bậc đàn chị qua cách dùng あなた [anata].
Một điều lạ là từ あなた [anata] lại thường được in trong sách tiếng Nhật dành cho người nước ngoài. Điều này được cho là buộc phải làm. Bởi lẽ nếu không có chủ ngữ thì người nước ngoài học tiếng Nhật thường không thể đặt thành câu văn. Để tránh dùng ngôi thứ hai này, trong quá trình giảng dạy, giáo viên sẽ lưu ý cho người học.
Thực tế khi người Nhật nói chuyện với nhau, hầu như họ không dùng あなた [anata]. Đó cũng là lý do học sinh cấp II của Nhật khi học tiếng Anh cảm thấy ngường ngượng khi sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ hai “you”.


                                                                                                    (sưu tầm)
           Công Ty Hiền Quang chuyên Du Học Nhật Bản

Bí quyết làm ăn với người Nhật

Người Nhật Bản rất coi trọng chữ tín và các phép tắc xã giao.
Với nền kinh tế lớn nhất châu Á và thứ 2 thế giới, Nhật Bản đang là thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy việc nắm rõ đặc điểm tiêu dùng và tính cách kinh doanh của người Nhật sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam giao tiếp và kinh doanh thành công với họ.
Thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản rất đa dạng nhưng cũng khá độc đáo. Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, người tiêu dùng Nhật rất chú ý đến chất lượng hàng hóa. Sống trong môi trường có thu nhập cao nên người Nhật Bản thường đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng hàng hóa, bao gồm cả vấn đề vệ sinh, hình thức và dịch vụ hậu mãi. Những vết xước hàng hóa trong quá trình vận chuyển cũng có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiêu thụ cả lô hàng và ảnh hưởng đến uy tín.

Ngoài ra, người Nhật Bản cũng rất nhạy cảm với giá tiêu dùng hàng ngày. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế bong bóng vào cuối những năm 90 của thế kỷ trước, người Nhật không chỉ quan tâm đến vấn đề chất lượng mà còn rất chú ý đến sự thay đổi giá cả.

Đối tượng mua hàng chủ yếu là những phụ nữ nội trợ đi mua hàng ngày, có nhiều thời gian (tình trạng sau khi lấy chồng sẽ bỏ việc làm tại công ty vẫn còn phổ biến) nên họ rất quan tâm đến sự thay đổi về giá và về mẫu mã hàng hóa. Tuy vậy, tâm lý thích dùng hàng xịn, hàng đồ hiệu cho dù với giá rất cao vẫn không thay đổi nhiều so với trước đây. Bên cạnh đó, họ cũng quan tâm nhiều đến vấn đề thời trang và màu sắc hàng hóa phù hợp theo từng mùa xuân, hạ, thu, đông. Mặt khác, tính đa dạng của sản phẩm là yếu tố vô cùng quan trọng cho việc thâm nhập thị trường. Trên thực tế, trong các siêu thị ở Nhật Bản có vô số những kiểu dáng, loại của cùng một loại hàng tiêu dùng.

Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản cũng cho biết, gần đây, mối quan tâm đến vấn đề sinh thái của người Nhật ngày càng nâng cao. Các cửa hàng đang liên tục cải tiến cách đóng gói sản phẩm để làm sao vừa đẹp, vừa đơn giản và bao bì có thể tận dụng bằng các nguyên liệu tái sinh.

Theo một số chuyên gia chuyên nghiên cứu về Nhật Bản, khi kinh doanh với người Nhật, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý tới một số điểm sau đây:

1. Đặc điểm nổi bật khi làm việc với các doanh nhân Nhật Bản là giữ chữ tín, giữ lời hứa dù là những việc nhỏ nhất. Đặc biệt, họ coi trọng ấn tượng trong buổi gặp mặt đầu tiên hay trong đợt giao dịch đầu tiên. Điều này có nghĩa khi các doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện được lời hứa, thì việc đầu tiên là phải xin lỗi, cho dù vì bất kỳ lý do gì. Việc giải thích lý do phải được thực hiện hết sức khéo léo và vào những thời điểm phù hợp.

2. Trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ, làm việc rất máy móc. Cho dù là công ty thương mại đơn thuần trong đại đa số trường hợp, khách hàng Nhật Bản vẫn yêu cầu đối tác làm ăn đưa đến tận nơi sản xuất để tận mắt chứng kiến tổ chức, năng lực sản xuất của bạn hay của đối tác sản xuất hàng cho bạn. Nhưng khi bắt đầu vào giao dịch chính thức thì các công ty Nhật Bản lại nổi tiếng là ổn định và trung thành với bạn hàng.

3. Thời gian đặt hàng thử, số lượng nhỏ kéo dài rất lâu. Nhiều khi, sau vài đơn hàng đầu tiên với số lượng ít, doanh nghiệp phía Việt Nam không đủ kiên trì để tiếp tục nên đã không nhiệt tình trong giao tiếp kinh doanh, dẫn đến mất khách hàng tốt trong tương lai.

4. Việc tham gia hội chợ thương mại tại Nhật Bản là rất quan trọng, nó không chỉ giúp tìm kiếm khách hàng mới mà còn khẳng định tính thường xuyên, ổn định trong kinh doanh với khách hàng cũ.

Tuy nhiên, việc tham gia hội chợ tại Nhật Bản thường rất tốn kém, chưa kể những mẫu mã hàng hóa chọn để trưng bày nên có sự trao đổi và thống nhất trước với những khách hàng truyền thống của mình, tránh tình trạng vi phạm cam kết về mẫu mã trước đó.

5. Khi giới thiệu hay bán hàng tại gian trưng bày, người phụ trách bán hàng không được ăn, uống trước mặt khách hàng, cho dù phía trước gian hàng chỉ thấy có khách đi qua, lại. Phải luôn đứng, tươi cười mời chào khách với thái độ thật niềm nở và cám ơn cho dù khách đó chỉ nhìn vào gian hàng của ta rồi lại đi luôn.

6. Người Nhật rất coi trọng chuyện gặp mặt trước khi bàn bạc hợp tác và rất chu đáo trong việc chăm sóc khách hàng. Việc mời ăn, đón, tiễn sân bay (đặc biệt là nếu vào được tận trong máy bay để đón thì sẽ gây được ấn tượng đặc biệt với bạn). Trong giao dịch thương mại, vấn đề quan hệ cá nhân là vô cùng quan trọng. Chú ý, trong bữa ăn mời khách, ta nên chủ động tiếp đồ uống cho cho khách, cố gắng làm sao để khách không bao giờ phải tự rót rượu cho mình trong suốt bữa ăn.

7. Văn hóa trao danh thiếp: Nhật Bản là một trong những nước hay sử dụng danh thiếp nhất thế giới. Việc không có hay hết danh thiếp khi giao dịch không bao giờ để lại ấn tượng tốt với khách hàng.

8. Trực công ty: Người Nhật sẽ cảm thấy rất bất ổn về đối tác khi họ gọi điện đến công ty mà không thấy có người trả lời máy điện thoại hoặc trả lời không đúng mực.

9. Rất thích khi đối tác sử dụng được tiếng Nhật vì họ cảm thấy gần gũi hơn. Hơn nữa ở những doanh nghiệp vừa và nhỏ, số người nói được tiếng Anh rất ít.

10. Người Nhật Bản rất coi trọng giờ hẹn. Vì vậy, khi đi làm việc với khách Nhật, ta phải chủ động lựa chọn phương tiện hợp lý và thời gian đảm bảo tránh bị muộn vì lý do tắc đường.

11. Sau khi đàm phán hay thống nhất vấn đề gì đó dù là không quan trọng lắm cũng cần phải làm bản tóm tắt nội dung đã thống nhất gửi lại cho đối tác.

12. Chú ý tặng quà khách vào một số dịp lễ của Nhật như dịp Ô Bôn (tháng 7), dịp này nên gửi đồ ăn; dịp cuối năm Dương lịch nên tặng đồ uống.

13. Gửi thiếp chúc mừng nhân dịp ngày thành lập công ty; gửi thiếp chúc mừng Giáng sinh và năm mới (lưu ý thiếp chúc mừng phải được gửi tới tay đối tác trước ngày Giáng sinh, tốt nhất là vào khoảng nửa đầu tháng 12).

14. Hàng hóa, cho dù bất kỳ loại gì cũng phải có hình thức đẹp, sạch sẽ. Bao bì sản phẩm phải rất cẩn thận đúng tiêu chuẩn, hình thức đẹp, kích thước phù hợp tạo được sự lôi cuốn và tiện dụng cho người sử dụng. So với các thị trường khác, tại Nhật Bản đối với một số mặt hàng như hàng quà tặng, chi phí cho bao bì chiếm tỷ trọng cao hơn trong giá thành sản phẩm.

(sưu tầm)
Công Ty Hiền Quang chuyên Du Học Nhật Bản

ĐIỀU KIỆN ĐĂNG KÝ
- Tốt nghiệp THPT trở lên
- Không yêu cầu học lực, tuổi tác
- Có nguyện vọng học và làm việc tại Nhật Bản     
Chúng tôi giúp bạn đi du học với chi phí chỉ 100 triệu